II. HIỆP THÔNG: TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ
ĐỂ CHIA SẺ
Từ món quà nhận được đến món quà được chia sẻ: “Xin cho tất cả nên một ngõ
hầu thế gian tin” (Ga 17:21)
21. Mầu nhiệm hiệp thông nội tại của
Ba Ngôi Thiên Chúa được thông đạt cho chúng ta đã biến thành món quà mà chúng
ta chia sẻ với anh em trong cộng đoàn. Cũng chính món quà được lãnh nhận và
chia sẻ đó cũng sẽ được trao ban trong sứ mạng.
Nền tảng của cộng đoàn tu trì tiên vàn
là món quà của tình huynh đệ được lãnh nhận, trước khi là nỗ lực hoặc sự quảng
đại của mỗi thành viên hoặc là nhiệm vụ họ thực hiện. “Khi nào chúng ta đánh mất
chiều kích huyền nhiệm và thần học kết nối các cộng đoàn tu trì với mầu nhiệm
hiệp thông của Thiên Chúa hiện diện và được truyền thông cho cộng đoàn, thì tất nhiên
chúng ta sẽ quên những lý do sâu xa của việc làm cộng đoàn, của việc kiên
nhẫn xây dựng đời sống huynh đệ”.
Cộng đoàn các Tu huynh biểu lộ tính
cách phổ quát của tình huynh đệ được khởi đầu do Đức Kitô, bởi vì nó không dựa
trên những dây ràng buộc tự nhiên nhưng dựa trên sức mạnh của Thánh Linh, nguyên
ủy sống động của tình yêu giữa nhân loại. Đời sống cộng đoàn đích thực tạo nên
một dấu chỉ sống động của thực tại thiết yếu mà các Tu huynh phải loan báo. Tình
yêu mà Thiên Chúa đã bày tỏ cho nhân loại trong Đức Giêsu trở thành nguyên lý kết
hợp con người với nhau: “Xin cho tất cả
được nên một ngõ hầu thế gian tin” (Ga 17,21). Được xây dựng trên đức tin,
cộng đoàn thi hành tác vụ là mạc khải tình yêu Chúa Ba Ngôi, nhờ sự hiệp thông đang
ngự trị trong đó.
Thánh hiến và sứ mạng được kết hợp
trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn được quy tụ nhân danh Đức Giêsu, Tu huynh trải
nghiệm mầu nhiệm Thiên Chúa: tình yêu của Chúa Cha, sự sống của Đức Kitô Phục
sinh, sự hiệp thông của Thánh Linh. Chúa thánh hiến Tu huynh trong cộng đoàn và
từ cộng đoàn Người sai họ đi loan báo mầu nhiệm ấy: tình yêu, sự sống và sự hiệp
thông.
Cộng đoàn thi hành chức tư tế phổ quát
22. Cộng đoàn Tu huynh tự nó là một sự
biểu lộ đặc biệt của chức tư tế phổ quát. Toàn thể cộng đoàn hướng đến chỗ giúp
cho các thành viên sống kinh nghiệm của những kẻ được Chúa tuyển chọn, được xây
dựng “tựa như những viên đá sống động, …
làm nên ngôi nhà thiêng liêng, một hàng tư tế thánh thiện để dâng lên Thiên Chúa
lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (1Pr 2,5). Hình ảnh
của thư thứ nhất thánh Phêrô cho chúng ta thấy ý tưởng năng động của một tòa
nhà đang xây dựng. Nó rất thích hợp để diễn tả cộng đoàn các Tu huynh được mời
gọi phát triển chiều kích của chức tư tế phổ quát.
Cộng đoàn tổ chức cuộc sống để nắm bắt tác động của Thiên Chúa trong những
công tác thường nhật và khám phá ra ở đó lịch sử cứu độ đang được thực hiện ngày
này qua ngày khác. Trong chiêm niệm, cộng đoàn khám phá ra chính mình như trung
gian hành động cứu độ của Chúa. Cộng đoàn dâng lời tạ ơn, cử hành và dâng hiến
chính mình để tiếp tục như công cụ hữu dụng trong lịch sử cứu độ.
Chất liệu của hiến lễ của cộng đoàn là
chính thực tại các Tu huynh, với những giới hạn, nghèo nàn và yếu đuối của mỗi
người. Các Tu huynh xây dựng cộng đoàn bằng sự vui tươi trao tặng bản thân mình.
Đó là một cảm nghiệm của bí tích Thánh Thể, nhờ đó họ kết hiệp với Đức Kitô
trong việc hiến mình cho Chúa Cha, để tiếp tục công cuộc cứu độ của Người qua cộng
đoàn. Trong cuộc cử hành này, không thể nào thiếu sự tha thứ cho nhau, không chỉ
như một đòi hỏi của tình yêu và là điều kiện để xây dựng cộng đoàn, nhưng còn
như sự diễn tả chức tư tế phổ quát. Như vậy, họ trở nên trung gian cho nhau về ân
sủng và sự tha thứ đến từ Chúa Phục Sinh (x. Ga 20, 22-23)
Tình huynh đệ thừa tác: “nguồn mạch và
hoa trái của sứ mạng”
23. Sự hiệp thông “diễn tả nguồn mạch cũng
như hoa trái của sứ mạng”.
Lời khẳng định của việc suy tư hậu công đồng về Giáo hội tìm thấy một hình ảnh hữu
hình trong cộng đoàn do các Tu huynh xây dựng. Cộng đoàn luôn luôn là một huynh đoàn nhắm đến
sứ mạng. Điều này không đơn thuần chỉ có nghĩa là cộng đoàn phải có một công
tác tông đồ ở bên ngoài. Mầu nhiệm cứu độ
của Thiên Chúa trào ra như một nguồn mạch trong cộng đoàn, được sống giữa các
anh em, và tìm cách diễn tả trong sứ mạng của Giáo hội. Rồi nó lại quay trở lại
cộng đoàn và nuôi dưỡng đời sống cộng đoàn qua trải nghiệm trong sứ mạng.
Được thúc đẩy bởi đặc sủng của các vị
sáng lập, các Hội Dòng Tu Huynh thành lập các cộng đoàn tọa lạc ở tại sứ mạng, tại
một sứ mạng nào đó nằm trong sứ mạng rộng lớn của Giáo hội, hoặc là hội dòng hoạt
động hoặc chiêm niệm hoặc vừa chiêm niệm vừa hoạt động. Cộng đoàn hoạt động như
thể là môi giới biểu lộ tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, như là công cụ cứu
độ của Ngài giữa những người đau khổ, những người bị gạt ra bên lề, những người
thấp kém và yếu đuối. Cộng đoàn làm cho Thiên Chúa cứu độ được hiện diện ở giữa
nhân loại cần đến ơn cứu độ. Vì thế cộng đoàn dễ được đồng hóa với dấu chỉ dẫn
đến thực tại mà nó tượng trưng. Cộng đoàn xuất hiện như là một nhóm những người anh em cố gắng sống hiệp với
nhau chung quanh Đấng đã quy tụ họ, và họ truyền thông cảm nghiệm này như là sứ
điệp của Đấng sai họ đi.
Sự kiện Giáo hội phê chuẩn các Dòng Tu
Huynh trước hết bao hàm việc trao phó sứ mạng mà họ thực thi dựa theo đặc sủng
riêng; thứ đến, Giáo hội nhìn nhận rằng những cuộc dấn thân của họ vào những hoàn
cảnh nhân sinh khác nhau thì không phải là ngẫu nhiên hoặc ngoài rìa đời sống
thánh hiến, nhưng là phần thiết yếu của căn tính và sự thánh hiến của họ. Ngoài
những công tác đặc biệt mà họ thực hiện, những cộng đoàn thánh hiến này thay mặt
cho Giáo hội, bí tích phổ quát của ơn cứu
độ,
ở trong xã hội và đặc biệt bên cạnh những người nghèo và những người đau khổ.
Vì thế, xem ra thích hợp để coi cộng
đoàn Tu Huynh này như là tình huynh đệ thừa
tác, theo nghĩa là tác vụ của Giáo hội
mà cộng đoàn Tu Huynh đảm nhận mang lại cho họ một căn tính đặc thù trong Giáo
hội. Ngoài ra, cộng đoàn còn nhấn mạnh đến tương quan huynh đệ giữa các thành
viên với những người mà sứ mạng của họ nhắm tới. Cộng đoàn, chứ không phải là
cá nhân, thực hiện tác vụ. Những thành viên trong cộng đoàn tác vụ có thể thi
hành nhiều công tác khác nhau; thậm chí một vài người bị ngăn trở không thể làm
được một công việc bên ngoài, do bệnh tật hoặc tuổi tác. Tác vụ không được đồng
hóa với một công việc nào nhất định. Tác vụ do toàn thể cộng đoàn thực hiện,
qua những công việc khác nhau của các thành viên, bao gồm cả cầu nguyện, dâng hiến,
đau khổ của người bệnh, liên đới. Toàn thể cộng đoàn đảm nhận trách nhiệm đối với
sứ mạng mà Giáo hội đã ủy thác.
Tình huynh đệ trong phục vụ là một
đóng góp căn bản của các Dòng Tu Huynh cho đời sống thánh hiến và cho Giáo hội.
Qua tình huynh đệ ấy, các Dòng này nêu bật mối liên kết bất khả ly giữa hiệp
thông và sứ mạng, vai trò cốt yếu của tình huynh đệ như cốt lõi của việc truyền
giảng Tin Mừng, tầm mức rộng lớn và đa diện của việc truyền giảng Tin mừng, thực
tại về tác động của Thánh Linh và những mầm
mống của Lời
hiện diện cách nào đó trong mọi dân tộc và văn hóa.
Hiệp thông huynh đệ và đời sống chung
24. Đời sống chung, một đặc trưng cốt
yếu đời sống tu trì của các Tu huynh, có mục đích là hỗ trợ mối hiệp thông
huynh đệ; tuy nhiên sống tình huynh đệ không đương nhiên thành hình nhờ việc
tuân thủ những luật lệ điều hành đời sống chung.
Đành rằng các cơ chế là cần thiết, nhưng
cộng đoàn các anh em được bộc lộ qua cung cách sống của họ. Các anh em được tụ
họp để cùng nhau tham gia tròn đầy vào đời sống và sứ mạng của Chúa Giêsu, để
làm chứng cho tình huynh đệ và tình nghĩa tử là điều mà mọi tín hữu đều được mời
gọi.
Vì thế, đối với các Tu huynh, cộng
đoàn là một cảm nghiệm hơn là một nơi;
hoặc chính xác hơn, các Thầy sống chung với nhau, tập trung ở một nơi, là để sống sâu xa cảm nghiệm ấy.
Nhờ vậy, họ đáp lại lời mời gọi trở nên những chuyên gia về hiệp thông,
những dấu chỉ hữu hiệu của việc có thể thiết lập những mối tương quan sâu đậm được
đâm rễ trên tình yêu Chúa Kitô.
Yêu thương nhau là dấu hiệu căn cước của
các Kitô hữu (x. Ga 13, 35), và đây là dấu chỉ mà các Tu huynh muốn cống hiến. Đây
phải là tiêu chí phân định của mọi cộng đoàn Tu Huynh, đứng trên hiệu năng các
công việc của họ. Thật dễ nhận thấy ở giai đoạn hình thành của mỗi Hội dòng Tu
Huynh, tình huynh đệ là dấu hiệu cốt lõi của dự án, được hấp thụ từ lý tưởng của
các Kitô hữu thuở ban đầu, trở nên “một
lòng một ý” (Cv 4, 32). Từ tâm điểm ấy, họ tổ chức hoạt động tông đồ, với ý
thức rằng hoạt động này truyền thông những điều mà họ đã sống trong cộng đoàn.
Tình huynh đệ của họ sẽ tạo ra các dây huynh đệ, và sứ mạng của các Tu huynh được
phác thảo ngay từ lúc ban đầu như là sống
hiệp thông và tạo ra hiệp thông.
Tình huynh đệ và các lời khuyên Tin mừng:
một dấu chỉ ngược dòng
25. Về phía các Tu huynh, cảm nghiệm
ngôn sứ của tình huynh đệ
được kèm theo cam kết chấp nhận lối sống của Chúa Giêsu. Sự độc thân thánh hiến
cho phép họ sống đời sống cộng đoàn cách tròn đầy và trở nên anh em của mọi người,
thay vì sống một tình yêu độc chiếm. Sự khó nghèo, được hiểu như chọn lựa lối sống
đạm bạc và đơn giản, dẫn đến việc chia sẻ tài sản để sống hiệp thông huynh đệ với
những người khác. Và sự vâng
phục, qua đó mọi người gắn bó với mọt dự án chung, kết hợp họ “trong cùng một chứng
tá và trong cùng một sứ mạng, tuy vẫn
tôn trọng những ân huệ khác biệt và cá tính của mỗi người”.
Lối sống mang tính ngôn sứ như thế đòi hỏi sự cắt đứt với nguyên quán, gia
đình, bạn bè và dân tộc …, để chỉ nhận lại chúng sau khi đã đâm rễ trong gia
đình mới, được lồng trong tình huynh đệ đại đồng.
Cộng đoàn Tu Huynh sống sứ mạng ngôn sứ
của mình cách ngược dòng, bởi vì lối sống theo Tin Mừng tương phản với những gì
thế gian cổ vũ. Nó là dấu chỉ của “tình
huynh đệ được sinh ra bởi Thần Khí, bởi sự tự do nội tâm của những kẻ tín thác
trọn vẹn vào Thiên Chúa bất chấp những giới hạn của con người”.
Vì thế, nó là chỗ của sự dấn thân đa dạng, của sự tương trợ lẫn nhau, của sự hòa
hợp và liên đới cởi mở và hướng ngoại, trong một lối sống khắt khe, trong sự
phân định nếp sống dựa theo ánh sáng Tin Mừng. Dù sao đi nữa, đừng quên rằng đó
là một dấu hiệu mong manh: nó cần phải
liên tục đổi mới; nó phải sống trong con đường đưa đến sự thánh thiện và trong
năng lực của Tin mừng luôn làm sinh động các cơ cấu.
Cộng đoàn tìm kiếm
26. Lúc khởi đầu cảm nghiệm ơn gọi,
Tông đồ Phaolô đã thưa “Lạy Chúa, con phải
làm gì?” Câu hỏi này đánh dấu một cuộc thay đổi thái độ triệt để, qua việc
khước từ con đường của mình để đi vào con đường của Chúa Giêsu. Ông sẽ không
tìm thấy câu trả lời trong việc tuân hành nghiêm túc Lề luật và các truyền thống
của Hội đường, nhưng là trong sự lắng nghe các con người, trong việc đọc ra các
biến cố hàng ngày và trong việc suy niệm Lời Chúa.
Khi đối diện với hiện tại, các Tu
huynh cần phải thử đặt câu hỏi như thánh Phaolô: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Tuy nhiên câu hỏi này chỉ thực sự
chân thành nếu được chuẩn bị với thái độ sẵn sàng “chỗi dậy”, bởi vì đây là đòi hỏi tiên quyết của câu trả lời (x. Cv
22, 10,16). Nói cách khác, trung thành với thời hiện tại đòi hỏi thái độ sẵn
sàng thay đổi chứ không trụ lại. Nếu thiếu thái độ sẵn sàng như vậy thì việc
thay đổi các cơ cấu không ích lợi gì.
Tu huynh không đặt ra câu hỏi với chính
mình, nhưng là với Chúa Giêsu bởi vì anh muốn biết và thi hành ý muốn của Người.
Tu huynh phải là một nhà chiêm niệm,
để có thể nhận ra Người trong mọi người và trong các biến cố hàng ngày dưới ánh
sáng Lời Chúa. Sự soi chiếu này cho phép Tu huynh đọc ra cuộc sống hàng ngày theo
trái tim của Chúa và sống mọi khoảnh khắc như là thời gian của ân sủng và cứu độ.
Đời sống thánh hiến, như tất cả mọi
hình thức của đời sống Kitô hữu, là một cuộc
tìm kiếm đức mến trọn hảo.
Ơn gọi Tu huynh và cam kết của họ trở nên ký ức cho mọi người về nỗ lực đó cũng
là động lực để cho mình luôn gắng sức hơn.
Trong cuộc kiếm tìm này, họ phải đặc biệt cảnh báo tình trạng xói mòn của đời sống
huynh đệ trong cộng đoàn. Có nhiều yếu tố dẫn đến việc phá hủy tình huynh đệ nếu
các Tu huynh không xây dựng nó mỗi ngày và không sửa chữa những thiệt hại đã xảy
ra. Một phần của tiến trình hoán cải là liên
lỉ trở về với điều cốt yếu, với sứ vụ ngôn sứ của họ trong Giáo hội: sống tình
huynh đệ như món quà lãnh nhận từ Thiên Chúa và xây dựng nó, với sự giúp đỡ của
Chúa và sự dấn thân chung của các Tu huynh, từ bên trong và bên ngoài cộng
đoàn.
III. SỨ MẠNG: TÌNH HUYNH ĐỆ, MÓN QUÀ ĐỂ
TRAO TẶNG
Đời sống như là tình huynh đệ với người
bé mọn: “Những gì các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta”
(Mt 25, 40)
27. Trong Tin Mừng cho hai hình ảnh
cho chúng ta thấy ý nghĩa của sứ mạng Tu huynh. Một hình ảnh là Đức Giêsu động lòng
trắc ẩn với đám đông “bởi vì họ như bầy
chiên không người chăn dắt” (Mc 6,34). Đức Giêsu đã nuôi họ thỏa thuê bằng
bánh của Lời và, động lòng trắc ẩn, Người bảo các môn đệ hãy cho dân chúng ăn bánh của đời sống
tự nhiên: “Anh em hãy cho họ ăn đi”
(Mc 6, 37).
Một hình ảnh khác giới thiệu Đức Giêsu,
là Con Người, nhưng lần này, lòng trắc
ẩn tỏ ra như là tình huynh đệ đích thực đối với những người thấp bé nhất, đến nỗi
đồng hóa mình với họ. Lệnh của Người trở thành một lời cảnh báo long trọng: “Điều gì các người làm cho một trong các anh
em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người làm cho chính Ta… Điều gì các người
không làm cho một trong những anh em bé nhỏ này, là các người không làm cho
chính Ta” (Mt 25, 40 – 45)
Tất cả Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu quan
tâm đến việc làm xoa dịu những đau khổ và đáp ứng những nhu cầu của tha nhân, đến
nỗi tự đồng hóa mình với những người khổ sở và cảnh báo rằng chỉ những ai chăm
sóc họ mới được thừa hưởng Vương quốc đã hứa. Một cách tương tự như vậy, mệnh lệnh
mà các môn đệ đã nhận khi được sai đi loan báo Tin mừng không chỉ liên quan đến
sứ điệp tinh thần mà thôi, nhưng còn liên quan đến việc giải phóng những gì đàn
áp con người và chèn ép sự phát triển nhân vị,
bởi vì “có những liên kết chặt chẽ giữa loan báo Tin mừng và thăng tiến con người
– phát triển và giải phóng”.
Trong suốt dòng lịch sử, Giáo hội rất
lưu ý đến lệnh truyền quan trọng của Đức Giêsu: “Anh em hãy cho họ ăn”. Hoạt động loan báo Tin mừng luôn nối kết với
việc phân phối cơm bánh nhân sinh, dưới những hình thức khác nhau: lương thực,
sức khỏe, giải phóng, văn hóa, ý nghĩa cuộc đời… Đặc biệt, lịch sử đời sống
thánh hiến thuật lại nỗ lực này để Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở nên thực tại.
Sứ mạng của các Tu huynh tiếp nối trào
lưu được trưng bày nơi hai biểu tượng nói trên. Một mặt, nó là hoa trái của một
trái tim động lòng trắc ẩn trước những nhu cầu và những đau khổ của nhân loại.
Các Tu huynh cảm nhận được tiếng gọi của Chúa Kitô sai họ đi xoa dịu những cơn
đói khát dưới nhiều hình thức khác nhau; đặc sủng của họ làm họ nhạy cảm đối với
một vài hình thức cụ thể nào đó. Thế nhưng chưa đủ đâu! Ơn gọi tối hậu của một
Tu huynh là đồng hóa với Con Người. Vì thế Tu huynh được thúc đẩy muốn làm giống
như Người, trở nên anh em của những người bé mọn nhất. Nhờ vậy, bằng sứ mạng,
anh hiến tặng món quà của tình huynh đệ mà anh đã nhân lãnh và sống trong cộng
đoàn. Đó là món quà mà người lãnh nhận là những anh em bé nhỏ mà Đức Giêsu đã tự đồng hóa. Sứ mạng không phải là “điều mà anh làm”, nhưng là chính đời sống
của anh, được trở thành đời sống hiệp thông với người bé mọn nhất. “Để cho món
quà không làm hạ thấp người khác, tôi phải trao tặng họ không những là cái gì
thuộc về tôi nhưng là chính bản thân tôi; con người tôi phải hiện diện ở trong
món quà ấy”.
Tham dự vào tác vụ của Đức Giêsu, “Mục tử Nhân
lành”
28. “…Các Tu huynh phục vụ theo nhiều
cách khác nhau, trong và ngoài cộng đoàn, tham gia sứ mạng loan báo Tin mừng và
làm chứng tá bằng đức mến trong đời sống hằng ngày. Thực vậy, một vài công việc
phục vụ ấy có thể được nhìn nhận như là tác
vụ của Giáo hội, được ủy thác bởi quyền bính hợp pháp”.
Tất cả những công tác phục vụ này, “tuy dưới những hình thức khác nhau, đều tham dự vào chính tác vụ của Đức Giêsu Kitô là
Mục tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (x. Ga 10, 11), là tôi tớ
khiêm hạ và hoàn toàn xả thân vì ơn cứu cứu độ của muôn người (Mc 10, 45)”.
Hình ảnh Mục tử nhân lành, cũng giống như
hình ảnh Người Thầy thắt lưng, rửa chân cho các môn đệ, nói cho chúng ta không
phải về quyền hành nhưng là về phục vụ, yêu thương và hy sinh kể cả mạng sống. Mỗi
Tu huynh phải hiểu sứ mạng của mình theo nghĩa đó, dù được trao bất cứ công tác
nào, được bổ sung với sự hợp tác với các anh em khác.
Trong những việc phục vụ và tác vụ do
các Tu huynh thực hiện, có một số liên hệ đến đời sống nội bộ của Giáo hội, một
số khác rõ ràng mang tính cách truyền giáo. Một số tác vụ liên quan đến các chức
vụ thiêng liêng (tựa như phục vụ Lời Chúa và phụng vụ); một số khác cho thấy mối
quan tâm của Giáo hội đến thiện ích vật chất của con người, như quyền năng của
Thánh Linh nhằm chữa lành và biến đổi thế giới.
Dù nói thế nào đi nữa, sứ mạng các Tu
huynh không giới hạn vào các hoạt động mà họ thực hiện, kể cả hoạt động tông đồ.
Sứ mạng là loan báo Tin mừng theo một nghĩa rộng nhất. “Quả vậy, loan báo Tin mừng
là ân huệ và ơn gọi của Giáo hội, căn tính sâu xa của mình. Giáo hội hiện hữu
là để loan báo Tin Mừng”.
Ta cũng có thể nói như thế về về đời sống thánh hiến và cách riêng là các Tu
huynh: Ơn gọi của họ “gói ghém luôn cả bổn
phận tận hiến cho sứ mạng […] Trước khi nói đến các hoạt động bên ngoài, sứ
mạng được thực thi bằng cách để cho Chúa Kitô hiện diện trong thế giới nhờ chứng
tá cá nhân. Đây là sự thách đố, đây là nhiệm vụ thiết yếu của người sống đời
thánh hiến! Người tu sĩ ở trong tình trạng “truyền giáo” do hiệu năng của chính
sự thánh hiến của họ, được thể hiện dựa theo linh đạo của Hội Dòng”.
Chính trong tương quan mật thiết giữa sứ mạng và thánh hiến mà người tu sĩ tìm
thấy sự thống nhất đời sống: họ dấn thân cho sứ mạng do việc thánh hiến của mình,
và sống đời thánh hiến của mình qua sứ mạng.
Các hoạt động, kể cả hoạt động tông đồ,
có thể thay đổi hoặc thậm chí biến mất vì sức khỏe hoặc tuổi tác, nhưng sứ mạng
vẫn luôn tồn tại. Việc loan báo Tin mừng, được đặc sủng của dòng làm sinh động,
là lý do hiện hữu và đem lại ý nghĩa cho đời sống thánh hiến của họ. Như Đức
Giêsu, họ có thể nói: “vì họ, Con xin
thánh hiến mình Con” (Ga 17, 19).
Vì vậy đây không phải là một vấn đề
công tác đảm nhận nhưng là căn tính: “Tôi
là một sứ mạng ở trên đời; đó là lý do tại sao tôi hiện diện trong thế giới.
Cần phải nhận ra bản thân như là được đốt nóng bởi sứ mạng soi sáng, chúc lành,
linh hoạt, nâng đỡ, chữa lành và giải thoát”.
Tác vụ làm nên toàn diện con người Tu huynh: được thánh hiến, thành viên của cộng
đoàn, được đồng hóa với sứ mạng. Tu huynh đảm nhận toàn bộ và trách nhiệm làm
cho vị Mục tử nhân lành đã hiến mạng sống vì đoàn chiên được hiện diện, trong
Giáo hội và cho Giáo hội.
Sứ mạng dẫn tới nguồn mạch: “Hãy đến và
xem”
29. Ai cũng biết là xã hội thời nay
đang có một niềm khao khát tâm linh, nhưng nó đang gặp nguy cơ bị dập tắt bởi
những thứ nhu cầu giả tạo khác. Cũng như Philiphê và Nathanael, Tu huynh hãy vội
vàng thông báo mình đã khám phá một Đấng
đáp ứng những khát vọng sâu xa nhất của con tim; và đối mặt với sự hoài nghi của
người nghe, anh có thể nói: “Hãy đến mà
xem” (x. Ga 1, 45-46). Đó cũng là lời mời gọi của phụ nữ Samari dành cho đồng
bào của mình, sau khi đã gặp được nguồn mạch nước hằng sống mà Đức Giêsu đã
cung cấp: “Hãy đến và xem một người đã
nói với tôi về mọi điều tôi đã làm. Ông ta chẳng phải là Đức Kitô sao?” (Ga
4, 29).
Các Tu huynh tự nguyện làm những hướng
dẫn viên trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa,
tuy ý thức những giới hạn của mình, nhưng có khả năng đồng hành với người đương
thời trong hành trình đức tin. Trên bình diện cộng đoàn, các Tu huynh tìm cách làm
cho các cộng đoàn của mình trở thành những
trường linh đạo đích thực của Tin mừng,
và xuất hiện như là chỗ ưu đãi để cảm
nghiệm con đường dẫn tới Thiên Chúa.
Vì thế, với tư cách cộng đoàn, họ được mời gọi hô hào cầu nguyện, chia sẻ việc
tìm kiếm và trải nghiệm về Thiên Chúa, thực tập việc đọc Kinh Thánh và đào sâu cuộc
đối thoại giữa đức tin và văn hóa.
Những cộng đoàn chiêm niệm giữ chỗ ưu
tiên trong sứ mạng vạch ra các nguồn mạch.
Những cộng đoàn này là dấu chỉ hùng hồn chất vấn xã hội chúng ta đang xa lánh
Thiên Chúa. Họ trở nên nơi gặp gỡ cho những bạn trẻ và người trưởng thành đang tìm
kiếm ý nghĩa sâu xa của cuộc đời. Không phải là tình cờ mà hiện tượng thức tỉnh
tâm linh, đặc biệt nơi các bạn trẻ, đã bắt nguồn từ các cộng đoàn cầu nguyện đại
kết (tựa như Taizé), hoặc các cộng đoàn đan sĩ và tu sĩ nam nữ.
Tất cả các Tu huynh, bất kỳ sứ mạng của
họ thế nào đi nữa, cần phải quan tâm trở thành chứng nhân của niềm hy vọng, theo như thánh Phêrô mời gọi (1Pr 3,
15). Cụ thể, họ được mời gọi hãy để cho
niềm hy vọng có được một khuôn mặt, qua sự hiện diện trong những hoàn cảnh đau
khổ và lầm than, chứng tỏ rằng lòng trắc ẩn của Thiên Chúa không có giới hạn, rằng
sự phục sinh của Đức Giêsu là bảo đảm của chiến thắng, rằng Thiên Chúa của sự sống
sẽ có tiếng nói cuối cùng về sự đau khổ và cái chết, rằng vào ngày sau hết
Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt (Kh 7,17) và tất cả chúng ta sẽ sống như là những anh chị em với nhau.
Sứ mạng của tình huynh đệ, tìm kiếm người anh em thất lạc
30. Một đặc trưng của các Hội dòng Tu huynh
là đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Nào
ta hãy sang bờ bên kia” (Mc 4, 35). Trình thuật Tin Mừng theo thánh Máccô
(Mc 4, 34 – 5, 20) cho thấy Đức Giêsu và các môn đệ đi qua vùng đất dân ngoại để
loan báo sứ điệp Vương quốc. Quang cảnh này tỏ lộ một tình huống điển hình
trong đời sống Giáo hội: đứng trước cám dỗ co cụm trong nơi đang ở, Giáo hội được
Thầy mình thúc đẩy vượt qua biên cương. Vì không có gì thuộc về con người là xa
lạ đối với Giáo hội, và không tình trạng nào của nhân loại mà Giáo hội không
quan tâm, tất cả trở thành nơi thuận tiện để Giáo hội loan báo Tin Mừng của
Vương quốc.
Việc tìm kiếm người xa xôi, người khác
biệt, người lầm lạc, người thuộc nền văn hóa khác biệt … là mối bận tâm lớn của Giáo hội thuở ban đầu, và
được lặp lại như tiếng vang vào lúc khởi đầu của các Dòng tu. Trong Công vụ
Tông đồ, thuật ngữ “tận cùng trái đất” ám chỉ nơi mà các môn đệ Đức Giêsu phải hướng
đến để công bố Tin Mừng: “Anh em sẽ làm
chứng nhân của Thầy… đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Các Tu huynh, được động
viên bởi đặc sủng của Dòng, đã quyết tâm đón nhận lời mời gọi này.
Đâu là chỗ tận cùng vào thời nay? Thuật ngữ này không nhất thiết ám chỉ những
chỗ xa xăm, nhưng là những tình trạng gạt ra bên lề, vùng ngoại vi của thế giới chúng ta. Chỗ tận cùng ngày nay là các
nước nghèo, các nước đang phát triển và cả những vùng trì trệ các quốc gia tiến
bộ. Chỗ tận cùng ngày nay là thực trạng bi đát nhiều người nam nữ sống trong
tình trạng bần cùng, di dân, đói kém, bất công, sự thờ ơ và vô cảm trước nỗi đau
của người khác, hời hợt hoặc đánh mất các giá trị tín ngưỡng và nhân bản. Việc
dấn thân hòa mình vào các thực trạng ấy mang lại một ý nghĩa cao quý cho ơn gọi
của các Tu huynh.
Khát vọng đi đến chỗ tận cùng được biểu lộ qua sự lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo, hướng đến những người sống
trong tình trạng cùng cực.
Không người môn đệ nào của Đức Kitô được phép né tránh việc lựa chọn lựa ấy bởi
vì nó thuộc về yếu tính của Tin Mừng.
Thực vậy, việc lựa chọn ưu tiên cho người nghèo là dấu chỉ mà Đức Giêsu trưng
ra khi được hỏi có phải là Đấng được mong đợi hay không (x. Mt 11, 2-6). Khi
cam kết bằng lời khấn công sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, người
tu sĩ được yêu cầu sống nhất quán với việc dấn thân sống cho người nghèo, - và
trong khuôn khổ của đặc sủng Dòng - với người nghèo và như người nghèo.
Tin Mừng Luca cung cấp cho các Tu
huynh một bức icôn để soi chiếu và thách thức để tìm kiếm anh em xa lạ. Đó là
câu chuyện Người Samari nhân hậu (Lc 10, 30-37). Người Samari trắc ẩn trở thành
kẻ thân cận và anh em của kẻ bị gục ngã, là dấu chỉ yêu thương lân tuất của
Chúa Cha.
Dấu chỉ của một Vương quốc tìm kiếm ơn cứu độ toàn diện cho con người
31. Nhiều Tu huynh thi hành sứ mạng bằng
một công việc thuộc lãnh vực dân sự, tựa như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, giúp
đỡ di dân, đồng hành cùng trẻ em và thanh thiếu niên gặp hoàn cảnh bất trắc … Như
vậy, họ làm chứng rằng việc dấn thân cho Vương quốc cũng bao hàm nỗ lực để xây
dựng, ở đây và bây giờ, một thế giới nhân bản và đáng sống hơn; rằng tình yêu Đức
Kitô nối kết tình yêu nhân loại, đặc biệt với những người yếu kém nhất và nghèo
túng nhất. Ngày nay hơn bao giờ hết, thế giới đang cần những người thánh hiến
làm chứng họ nhận biết và yêu mến Thiên Chúa của sự sống, ngay từ giữa thực tại
thế trần và cuộc sống nhân sinh.
Trước hết, chúng ta muốn nói đến việc
lao động chân tay của nhiều Tu huynh và nữ tu. Các tu huynh đan sĩ, đặc biệt là
ở các đan viện Dòng Biển Đức, đã giữ một vai trò quan trọng ở Tây phương trong
việc phục hồi phẩm giá và giá trị của lao động chân tay, một điều mà ngay cả thời
nay tại một vài nền văn hóa vẫn coi như dành cho những hạng người thấp kém. Qua
lao động chân tay, các Tu huynh làm chứng giá trị cao cả của lao động, nhờ đó con
người hợp tác với Thiên Chúa để kiện toàn công trình tạo dựng của Người; họ trở
thành người thân cận của những anh em nhỏ bé nhất và họ đồng hóa với Chúa Giêsu,
người anh và người lao công.
Các Dòng Tu Huynh có sứ mạng gắn liền
với việc thăng tiến xã hội và việc thực thi nhân quyền trong những lãnh vực khác
nhau giữa những người bị gạt bên lề, những người mỏng dòn, hoặc với việc giáo dục
thì thể hiện dấu chỉ ngôn sứ của một Vương quốc tìm cách cứu độ toàn diện của mỗi
con người. Thường các tu huynh thi hành các công tác này như là một hành động của
cộng đoàn. Nhờ thế họ làm chứng tá hoàn hảo cho một cộng đoàn huynh đệ, cho thấy
rằng sự gắn kết của họ dựa trên Đấng đã yêu thương họ và sai họ ra đi. Ngay cả
khi, do tuổi tác hoặc các hoàn cảnh khác, các Tu huynh không thể trực tiếp tham
gia công tác chuyên môn, thì sự hiện diện của cộng đoàn thánh hiến trong bối cảnh
này vẫn là một tấm bản chỉ đường hướng về một chân trời chan chứa ý nghĩa.
Vương quốc của Thiên Chúa luôn ở giữa
chúng ta, và được kiến tạo ở đây. Đồng
thời Vương quốc Thiên Chúa luôn ở bên kia, bởi vì xét như công trình của Thánh
Linh, vượt lên trên mọi thành tựu của con người. Sự căng thẳng cánh chung được tượng trưng nơi
sự thánh hiến và nơi cá nhân của Tu huynh, và trở nên hiển hiện một cách đặc biệt
nơi cộng đoàn của các anh em Tu huynh.
3.
LÀM TU HUYNH HÔM NAY: MỘT CÂU CHUYỆN CỦA ÂN SỦNG
“Hãy ở lại trong
tình yêu của Thầy”
(Ga 15,9)
Một câu
chuyện trở nên một lịch sử cứu độ
32. Làm cách nào các Tu huynh có thể
trở thành khuôn mặt của giao ước, tiếp tục tác vụ của Người Tôi Tớ Giavê (x Is
42, 6), và trung thành với ơn gọi ngôn sứ nhận được từ Thiên Chúa? Làm cách nào
họ có thể tiếp tục trở nên ký ức sống động và chất vấn Giáo Hội về Chúa Giêsu –
kẻ phục vụ, rửa chân và yêu thương đến hiến mạng sống của chính mình? Giáo hội
có thể cảm nghiệm và đánh giá sứ điệp của họ, sứ điệp mà Giáo hội đang mong đợi
và yêu cầu họ, sứ điệp của tình huynh đệ không? Nói vắn tắt, ngày nay, làm Tu
huynh có nghĩa là gì?
Trả lời những câu hỏi này không dễ
dàng và đơn giản, do sự khác biệt giữa nhiều Hội Dòng và tình trạng đời sống tu
trì phong phú ở các châu lục khác nhau.
Đời sống thánh hiến luôn là câu chuyện của ân sủng trong Giáo hội và
cho thế giới, “món quà của Chúa Cha cho Giáo hội qua Thánh Linh”, nhắc nhở các
tín hữu hãy đưa mắt đức tin “hướng tới mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã tác động
trong lịch sử, nhưng đang chờ đợi hoàn trọn ở trên trời.”
Đời sống Tu huynh là một câu chuyện, một câu chuyện cứu độ cho
những người đương thời, trong số đó cách riêng cho những người nghèo nhất. “Có
thể là chúng ta không luôn luôn phản ánh đầy đủ vẻ đẹp của Tin Mừng, nhưng có một
điều chúng ta không bao giờ được phép bỏ qua: chọn lựa những người đứng cuối,
những người mà xã hội gạt ra và vứt bỏ”.
Đặc tính của các Tu huynh là tiêu hao sức lực của mình để trở nên quà tặng của Chúa
Cha cho những người mà họ được phái đến. Họ trở thành máng chuyển tình yêu từ
Chúa Cha đến Chúa Con và từ Chúa Con đến anh em của Người: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến
anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Việc ở lại mà Chúa đòi hỏi nơi các Tu huynh
mang một năng lực kích hoạt, đó là tình yêu.
Ai là anh
em tôi?
33. Câu hỏi « là
Tu huynh hôm nay có nghĩa là gì ? » giả thiết một câu hỏi khác: Ai là anh em tôi? Dụ ngôn người Samari nhân
hậu lại gợi lên một câu hỏi nữa: Chúng ta
là anh em cho ai, hoặc của ai? Câu trả lời cho các Tu huynh đã rõ ràng: nhất
là của những người cần đến tình liên đới của họ và những người mà đặc sủng của
Dòng đã vạch ra.
Để cho « câu
chuyện của ân sủng » được sống động và thực tế, các Tu huynh hãy để cho
mình lấy hứng khởi một chuỗi những bức icôn – của Kinh thánh, của ý định Đấng
sáng lập, của thời đại -, có thể mở toang đời sống hàng ngày cho huyền nhiệm của
tình yêu và giao ước đã được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh mạc khải.
Hai chương đầu của
văn kiện này chứa đựng nhiều bức icôn trong Kinh Thánh : từ Môsê đứng trước
bụi gai đang cháy đến Người Tôi Tớ Giavê, “giao ước với dân”, cho tới thánh
Phaolô té ngã trên đường Đamascô. Icôn ở chính giữa là Đức Giêsu, đấng mời gọi
chúng ta trở thành ký ức tình yêu của Người. Toàn thể các icôn này trình bày
cho chúng ta câu chuyện của lịch sử cứu độ, trong đó các Tu huynh được mời gọi
hãy hành động để cộng tác với công trình cứu độ của Thiên Chúa. Những bức icôn ấy
một đàng cần được gắn với những icôn vào giai đoạn thành lập Dòng để nhắc nhở
các anh em ngọn lửa khởi đầu cần khôi phục lại ; và đàng khác, cần gắn với
những icôn chuyển tải tiếng nói của Thánh Linh hôm nay: những khuôn mặt của những anh
em gần đây là hiến dâng cuộc đời, thậm chí đến độ tử đạo, ở những nơi xảy ra
xung đột xã hội hoặc tôn giáo; và cũng như khuôn mặt của các thiếu nhi, thanh
niên, tráng niên và người già được sống xứng hợp với phẩm giá nhờ sự hỗ trợ hoặc
gần gũi của các Tu huynh.
Còn nhiều khuôn mặt
vẫn đang chờ người Samari nhân hậu đến làm anh em với họ và giúp cho họ cuộc sống.
Qua ánh mắt, họ nài nỉ Tu huynh hãy chuyển lại những món quà đã nhận được như
trung gian và được dành cho họ. Họ mời gọi các Tu huynh hôm nay, dù ở tuổi nào,
hãy viết nên một câu chuyện của ân sủng, bằng cách sống lại niềm say mê Chúa Kitô
và nhân loại. Nỗi ưu tư cho việc sống còn, ngõ hầu câu chuyện của ơn cứu độ được
tiếp tục, là điều chính đáng. Nhưng cần
phải quan tâm hơn nữa đến ước mong trao tặng cuộc sống, chôn vùi xuống đất giống
như hạt lúa, vì biết rằng Chúa sẽ làm nó nảy
sinh gấp trăm lần theo cách thức mà Ngài nghĩ là thích hợp.
Thiết lập
nền móng: đào tạo sơ khởi
34. Câu chuyện của Tu huynh hôm nay bắt đầu được đâm rễ từ việc
đào tạo sơ khởi: trong giai đoạn này, một ứng sinh nhận thức cảm nghiệm của Người
Tôi Tớ: “Đức Chúa đã gọi
tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, trước khi tôi sinh ra Ngài đã gọi tên tôi…
Tôi được Chúa nhìn đến và Chúa là sức mạnh tôi” (Is 49, 1-5). Được bén rễ
như thế trong sáng khởi tự do của Thiên Chúa và trong cảm nghiệm bản thân về
tình thương ban tặng không công của Ngài, huấn
sinh lớn lên trong cảm thức thuộc về Dân Thiên Chúa, trong đó và vì đó mà họ được
chọn.
Một sự học hỏi
Giáo-Hội-học hiệp thông sẽ giúp họ tạo ra những mối dây liên kết với những người
đi theo « các lối sống khác nhau
trong Giáo hội » , vả cảm
thấy mình là người anh em với tất cả anh chị em trong Dân Thiên Chúa. Điều này cũng
có thể giúp họ khám phá và đánh giá những tài năng của mình, không phải như cái
gì làm mình tách rời hoặc đứng trên người khác, nhưng như là những khả năng mình
nhận được để mang phần đóng góp của mình vào sự tăng trưởng của Thân Thể Chúa
Kitô và sứ mạng trong thế giới.
“Hết mọi người trong Giáo hội đều được thánh
hiến trong bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức”. Nền tảng
chung này, được đọc và sống trong viễn ảnh của đặc sủng Đấng sáng lập, sẽ giúp
khám phá ý nghĩa sâu xa của sự thánh hiến của Tu huynh. Trong suốt giai đoạn đào
tạo sơ khởi, cần phải duy trì trực giác thần học và đặc sủng đó, vì nó làm nền
tảng của ơn gọi tu sĩ. Trực giác này nêu bật một hình thái riêng để sống tin mừng
bằng một sự thánh hiến đặc biệt dựa trên sự thánh hiến của bí tích Thánh tẩy và
nhằm phục vụ một sứ mạng đặc thù.
Nuôi dưỡng
niềm hy vọng: đào tạo thường xuyên
35. Các Tu huynh
sống ơn gọi trong thế giới hôm nay với nhiều cách khác nhau: một số với một chút
chán nản và thất vọng, một số khác với lòng trung thành, bình an, niềm vui và
hy vọng. Việc đào tạo liên tục rất cần thiết để kích thích một số người này, giữ
vững một số người khác và giúp cho tất cả mọi người cơ hội sống hiện tại như là
thời của ân sủng và ơn cứu độ (x. 2Cr
6,2). Ngày nay, hơn bao giờ hết, việc đào tạo thường xuyên là « một đòi hỏi
nội tại của đời sống thánh hiến » và trong
mỗi Dòng cần được thảo chương trình, qua một kế hoạch chính xác và hệ thống. Việc
đào tạo thường xuyên của các Tu huynh nhằm giúp cho họ sống hành trình của vị
sáng lập vào thời buổi hôm nay; khám phá và áp dụng vào hiện tại động lực đã từng
thúc đẩy vị sáng lập khởi xướng cuộc truyền bá Tin mừng ; đọc lại đặc sủng
lập dòng dưới ánh sáng của những thách đố và khả năng hiện tại, và cảm hứng từ
đó để đưa ra những giải đáp cho những vấn đề thời nay.
Mục tiêu của việc
đào tạo thường xuyên là cung cấp chìa khóa để sống đời thánh hiến trong thế giới
và trong Giáo hội hôm nay, cũng như cung cấp những tiêu chí định hướng sự hiện
hữu của các Tu huynh trong lãnh vực sứ mạng. Chương trình đào tạo này phải đưa
họ biết đánh giá các hoạt động của mình. Nó cần được xem như một tiến trình phân
định cộng đoàn nhằm mang lại những thay đổi cho toàn thể cộng đoàn chứ không chỉ
riêng từng cá nhân.
Nếu có thể được, việc
đào tạo phải được chia sẻ không chỉ cho các thành viên trong Dòng mà còn cho những
người cùng chia sẻ cùng đặc sủng nhưng sống trong hàng ngũ khác. Cũng sẽ rất hữu
ích nếu biết phối hợp các kế hoạch của các dòng khác có đặc sủng tương tự, tuy
vẫn không làm mất đi những khía cạnh đặc thù của mỗi ơn gọi.
Hồi phục
những vị thầy của đời sống và hy vọng
36. Việc đào tạo
thường xuyên dành cho các Tu huynh cao niên cũng đáng quan tâm ; họ là những
người thành viên tích cực trong việc xây dựng câu chuyện chung của ơn cứu độ. Rất
nhiều Tu huynh đã thi hành sứ mạng trong những nghề chuyên môn dân sự tựa như giáo
dục và y tế. Cần có một sự chuẩn bị trước cho họ để tránh xảy ra tình trạng việc
nghỉ hưu nghề nghiệp cũng mang theo việc nghỉ hưu tu trì. Không có chuyện nghỉ
hưu trong sứ mạng truyền giáo; duy có điều mà mỗi người tham gia bằng những cách
thức khác nhau. Một cách thức rất quan trọng là hỗ trợ sứ mạng chung bằng lời cầu
nguyện và hy sinh. Một cách thức khác là qua những việc phục vụ lặt vặt tùy
theo sức khỏe của mình, cũng như làm chứng tá và gương mẫu của công việc không
thù lao.
Sự cộng tác mà
người ta mong đợi nơi những anh em lớn tuổi không phải là thi hành những công
tác cụ thể, nhưng chính yếu là biết hiện diện trong cộng đoàn như những vị thầy của đời sống và niềm hy vọng, sẵn
sàng gần kề những anh em đang đi đường và vất vả thi hành sứ mạng bên ngoài. Bằng
cách đó, các anh em cao niên cộng tác để cho cộng đoàn phục vụ trở nên dấu chỉ
ngôn sứ của đức
tin, tình yêu và hy vọng, là điều mà xã hội đang cần đến.
Những
ngôn sứ cho thời đại chúng ta
37. Mọi thời đại
đều cần đến ngôn sứ. Trong những chương trên đây, chúng tôi đã nhắc đến những việc
phục vụ ngôn sứ khác nhau mà các Tu huynh cống hiến cho Giáo hội và xã hội hôm
nay, để góp phần giúp cho xã hội nhân bản hơn và để đáp lại những việc tìm kiếm
những giá trị tâm linh. Bây giờ chúng tôi đưa ra một vài công việc khác mà hoàn
cảnh biến chuyển của xã hội thời nay đang đòi hỏi và thách thức các Tu huynh:
- Ngôn sứ của việc tiếp đón, hiểu như là sự
cởi mở và đón tiếp những người khác: khác quốc gia, khác tôn giáo, khác chủng tộc
và văn hóa. Đây là một yếu tố thiết yếu để việc chung sống nhân loại, ngược lại
với thái độ bất khoan dung, loại trừ hoặc thiếu đối thoại.
- Ngôn sứ của ý nghĩa cuộc sống. Đối thoại
và lắng nghe là công tác mà nhiều tu sĩ nam nữ dành nhiều thời giờ, nhằm giúp
khám phá điều cốt yếu, đứng trước sự trống rỗng ở trong xã hội trù phú hiện nay.
- Ngôn sứ của việc khẳng định các giá trị của nữ
giới trong lịch sử nhân loại. Trong lãnh vực này, các nữ tu giữ một vai trò
chính trong việc mang lại một viễn tượng của phái nữ về cuộc sống, nhờ đó mở ra
một chân trời mới cho rao giảng tin mừng nói chung. Về phần mình, các Tu huynh góp
phần đào sâu khía cạnh ngôn sứ này bằng những trợ giúp huynh đệ và quý trọng sự
hiện diện của phụ nữ, nữ tu cũng như giáo dân, trong việc loan báo Tin mừng.
- Ngôn sứ của việc chăm sóc và bảo vệ sự sống,
bảo toàn công trình tạo dựng. Có những tu sĩ nam nữ đã liều mạng sống để phản
đối những hành vi và những chính sách đe dọa đời sống con người và môi trường sống.
Những người khác dành nhiều thời gian và sức lực cho việc lao động tay chân nhằm
bảo vệ thiên nhiên. Nhờ sự thánh hiến của mình, các tu sĩ này cho thấy, qua những
cách khác nhau, ý nghĩa và giá trị tâm linh của sứ mạng bảo vệ thế giới của
chúng ta cho các thế hệ tương lai.
- Ngôn sứ của việc sử dụng cách khôn ngoan những công nghệ
mới, để sử
dụng chúng vào lãnh vực truyền thông, để dân chủ hóa việc thông tin, đem chúng
đến phục vụ những người bất hạnh nhất, và biến các công nghệ này thành công cụ
cho nhiệm vụ loan báo Tin mừng.
Trong gia
đình : cách thức thể hiện mới của Giáo hội
38. Ngày nay, các
Tu huynh thường sống ơn gọi của mình bằng việc gia nhập một gia đình đặc sủng.
Nhiều Dòng đã có nguồn gốc lâu đời nhưng đã được đổi mới sâu xa, trong khi nhiều
Dòng mới đã xuất hiện như là kết quả của Giáo-hội-học hiệp thông theo đường hướng
Công đồng Vaticanô II. Các dòng tu cho thấy một cách thức mới mẻ để sống và xây
dựng Giáo hội, một cách thức mới mẻ để chia sẻ sứ mạng và kết hợp những ân huệ
khác nhau mà Thánh Linh đã phân phát nơi các tín hữu. Họ tượng trưng cho “một chương mới, tràn trề hy vọng… trong lịch
sử những mối tương quan giữa người sống đời thánh hiến và các giáo dân.”
Ngày nay các đặc
sủng sáng lập phát sinh từ các Dòng tu và Hội dòng được ví như những dòng sông
tưới dội Giáo hội, và còn trào ra xa hơn nữa. Các giáo dân thuộc về những nếp sống
khác nhau đã đến dòng sông của họ để ‘giải khát’ và để tham gia vào sứ mạng của
Giáo hội với nguồn cảm hứng và sức mạnh liên tục được đổi mới của các đặc sủng
này.
Các giáo dân và
tu sĩ, nam cũng như nữ, và các linh mục hiệp nhất với nhau trong một gia đình
thiêng liêng để cùng nhau sống đặc sủng đã nảy sinh ra nó, để cùng nhau hội nhập
khuôn mặt của Tin Mừng mà đặc sủng biểu lộ và cùng chung nhau phục vụ một sứ mạng
của Giáo hội, một sứ mạng không còn chỉ là sứ vụ của riêng một Hội Dòng.
Các Tu huynh tìm thấy trong đặc sủng
mang tính gia đình một môi trường thuận lợi để phát triển căn tính của mình. Thực
vậy trong bối cảnh này, các Tu huynh chia sẻ kinh nghiệm về sự hiệp thông và cổ
võ một linh đạo hiệp thông, ví như
dòng máu mang lại sức sống cho các thành viên trong gia đình và từ đó đến toàn
Giáo hội. Trong gia đình đặc sủng,
các Tu huynh đặt mình ở cạnh các Kitô hữu khác và vì họ. Cùng với họ, Tu huynh là những người anh em xây dựng tình huynh đệ
cho sứ mạng, được linh hoạt do đặc sủng của vị sáng lập; vì họ, Tu huynh là dấu chỉ của tình huynh đệ mà chính Tu huynh được
mời gọi sống trong đời thánh hiến.
Rượu mới
trong bầu da mới
39. Rượu mới cần
bầu da mới. Toàn thể Giáo hội có trách nhiệm đảm bảo rằng rượu mới này chẳng những
không bị mất mà còn có thể tăng thêm phẩm chất.
- Các Dòng Tu
huynh được thôi thúc hãy cấp tốc chuẩn bị những cấu trúc mới và chương trình
đào tạo sơ khởi cũng như đào tạo thường xuyên để có thể giúp những ứng sinh và
những thành viên biết khám phá và quý trọng căn tính của mình trong bối cảnh
giáo hội và xã hội mới.
- Các Dòng mang
tên là “hỗn hợp”, được nói
đến Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến, bao
gồm cả linh mục và tu huynh, được mời gọi tiếp tục chủ trương thiết lập giữa
các thành viên một tương quan căn bản bình đẳng về phẩm giá, không có sự phân
biệt nào ngoài những gì phát sinh bởi sự khác biệt tác vụ. Để tạo thuận lợi cho
tiến trình này, chúng tôi mong ước rằng những vấn nạn liên quan đến quyền quản
trị của các Tu huynh trong những Dòng này sẽ được giải quyết dứt khoát trong một
thời gian thích hợp.
- Thần học về đời
sống thánh hiến được mời gọi phát triển một suy tư thâm sâu, đặc biệt do chính
những Dòng Tu Huynh, về đời sống tu trì của các Tu huynh. Sự suy tư ấy sẽ được gợi
hứng bởi Giáo-hội-học và linh đạo hiệp thông, nền tảng của một nếp sống tu trì
đã phát triển trong Giáo hội vào những thế kỷ gần đây dưới hình thức các huynh đoàn phục vụ.
- Các bề trên và ban
quản trị trong Dòng hãy chú ý đến những dấu chỉ của kiểu sống mới trong đời sống
thánh hiến giáo dân, để cỗ vũ và đồng hành với họ, và phát hiện ra những biểu
hiện của đặc sủng vị sáng lập trong tương quan mới của Giáo hội hiệp thông.
- Các mục tử và hàng giáo phẩm
được mời gọi quảng bá sự hiểu biết và quý trọng các Tu huynh trong Giáo hội địa
phương, bằng việc cổ võ ơn gọi này, đặc biệt qua mục vụ giới trẻ, và tìm cách để
cho các Tu huynh và các nữ tu tham gia tích cực vào các cơ quan tham vấn, quyết
định và chấp hành trong Giáo hội địa phương.
Sợi chỉ đỏ
của câu chuyện: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”
40. Chúng tôi kết
thúc suy tư về căn tính và sứ mạng của các Tu huynh bằng việc nhắc lại lời của Thầy
Giêsu nhắn nhủ: “Hãy ở lại trong tình yêu
của Thầy” (Ga 15,9). Các Tu huynh cần phải ghi nhớ lời này trong tâm khảm khi
cố gắng hết tình để làm người Tu huynh
hôm nay: “Chúng ta đừng đánh mất sợi chỉ của câu chuyện”. Sợi chỉ này đang
đan dệt đời sống của họ và cảm nghiệm được sai đi làm dấu hiệu của lòng từ mẫu
của Thiên Chúa và của tình huynh đệ của Đức Kitô; đó là sợi chỉ liên kết tất cả
mọi hoạt động và sự kiện của đời sống để làm nên lịch sử cứu độ. Khi sợi chỉ
này bị mất, cuộc sống bị phân thành các mảnh vụn vì không còn quy chiếu đến
Thiên Chúa và Vương Quốc của Ngài, nhưng quay sang quy chiếu về chính mình.
Trong thao thức
muốn đáp ứng các nhu cầu của sứ mạng, các Tu huynh có thể bị cám dỗ bởi chủ
trương lăn xăn náo động, bởi vì cần phải kiếm nhiều bánh để dọn bữa cho người
đói. Thế nhưng chủ trương náo động sẽ nhanh chóng khoét trống những động lực
Tin mừng và ngăn cản họ chiêm ngắm những công trình của Thiên Chúa được thực hiện
trong hoạt động tông đồ của họ. Họ tự để cho mình bị cuốn theo các công việc, họ
thay thế việc tìm kiếm Thiên Chúa và ý muốn của Ngài bằng việc tìm kiếm chính
mình.
Để ngăn chặn sự
cám dỗ ấy, thật hữu ích khi chiêm ngắm bức icôn của hai cô Mátta và Maria được
Đức Giêsu đến viếng thăm (Lc 10, 38 – 42). Hai chị em sống trong mối căng thẳng hỗ tương. Họ cần đến nhau,
nhưng không dễ gì sống chung với nhau. Không nên tách rời hai người, tuy rằng mỗi
người có thể chiếm ưu thế vào một thời nào đó. Tuy nhiên, một cô đã chú ý đến ý
nghĩa và sự sâu xa của cuộc đời do lời Đức Giêsu mang lại: cô Maria đã chọn “phần tốt nhất”, đang khi cô Mátta “lo
lắng và băn khoăn nhiều thứ quá”.
Tin Mừng Luca kể
lại cho chúng ta quang cảnh hai chị em, liền ngay sau dụ ngôn người Samari Nhân
hậu (Lc 10, 30-37), một người trở thành kẻ thân cận của người anh em đang cần
giúp đỡ. Sứ điệp của hai bức icôn đã bổ sung cho nhau và nhắc nhở các Tu huynh chìa
khóa cốt yếu của căn tính ngôn sứ, đó là phải đảm bảo việc ở lại trong tình yêu Đức Kitô: Tu huynh được kêu gọi để trở
thành người chuyển trao liên tục tình yêu và giao ước đến từ Chúa Cha qua Chúa
Giêsu mà mình đã cảm nghiệm. Đang khi thi hành chức năng này, để đừng quên rằng
mình chỉ là công cụ của Thánh Linh trong công việc của Thiên Chúa, Tu huynh hãy
luôn nhớ lời Đức Giêsu: “Không có Thầy
anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
ĐHY João
Braz, Bộ trưởng
ĐTGM José
Rodríguez Carballo, OFM, Tổng thư ký
Chuyển ngữ : Ts Giuse Mai Văn Tuyến, OP
Hiệu đính : Ts Giuse Phan Tấn Thành, OP
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét